Ai cũng biết “Lá diêu bông” chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng của nhà thơ huê tình xứ Kinh Bắc. Nhưng trong tâm thức mọi người, dường như đều tin có cái “Lá diêu bông” thật, gắn với mối tình thơ dại của cậu bé Hoàng Cầm 12 tuổi. Và xung quanh cái “Lá diêu bông” ấy đã có nhiều câu chuyện thú vị về thi sĩ Hoàng Cầm.
Câu chuyện của 71 năm về trước…
Đó là vào dịp lễ Giáng sinh năm 1934, cậu học trò Hoàng Cầm được nghỉ về thăm nhà ở cái phố ga xép đìu hiu Như Thiết. Ở đấy có một cô gái bán hàng nước 20 tuổi đã hút hồn cậu học trò 12 tuổi trong mấy năm trời: chị Vinh. Hoàng Cầm về cũng là để được trông ngóng, ngó nhìn, chờ đợi chị. Chiều mùa đông nắng hanh vàng rộm, trời xanh trong, heo may se se lạnh. Vắng khách, chị bỏ cửa hàng bước nhanh ra cánh đồng, đi trên các bờ ruộng, lúi húi vạch từng lùm cây, bụi cỏ hoang dại như để tìm một vật gì đó. Cậu học trò đi theo, cách sau lưng chị ba bước. Thấy chị cứ tìm mãi, cậu mới bạo dạn hỏi:
– Chị Vinh ơi ! Chị đi tìm cái gì thế?
Chị cười, một nụ cười trêu cợt rất bí ẩn kiêu sa, rồi nói:
– Ừ, chị đi tìm cái lá… ấy đấy, đứa nào tìm được cái lá ấy ta gọi là chồng!
Tim cậu học trò như lặng đi ngừng lại vài giây rồi đập rất mạnh, người nóng ran lên trong buổi xế chiều càng lạnh, vì hy vọng là mình sẽ… tìm được cái lá ấy cho chị. Cái lá ấy, chị đã gọi tên, một cái lá có lẽ có thật, nhưng chỉ ít lâu sau buổi chiều mùa đông ấy, cậu học trò đã không sao còn nhớ, để rồi 25 năm sau, tức một phần tư thế kỷ, nó biến thành cái ” Lá diêu bông ” trong bài thơ nổi tiếng của thi sĩ Hoàng Cầm.
Và bài thơ ra đời 25 năm sau…
Một chiều thứ bảy, cậu học trò 12 tuổi si tình xuống tàu, vào phố xép đi về nhà, nhìn sang nhà chị Vinh thấy cánh liếp đóng im ỉm. Chị Vinh đã đi lấy chồng. Bà mẹ chị Vinh đã đồng ý gả chị cho một viên quản khố xanh ở Phủ Lý để cuộc sống đỡ khó khăn:
Năm sau giặc giã Quan Đốc đồng áo đen nẹp đỏ Thả tịnh vàng cưới Chị võng mây trôi Em đứng nhìn theo Em gọi đôi.
(Cây tam cúc)
Cậu học trò khóc oà lên, khóc như vừa có một thế giới nào đột ngột vỡ tung trong vũ trụ. Mối tình thơ dại tuổi học trò rướm máu ấy làm sao có thể quên được trong một hồn thơ đa tình đa cảm? Nó vẫn âm ỉ cháy không nguôi trong lòng thi sĩ suốt 25 năm qua…
Cho đến cái mùa rét năm 1959 thì kỷ niệm của mối tình thơ dại đầu đời bỗng ùa về trong lòng thi nhân và trào ra thành những con chữ trong cái giai điệu ” Lá diêu bông” như không thể nào cưỡng nổi. Và đây cũng là một hiện tượng “lạ” trong thơ Hoàng Cầm cũng như trong thơ hiện đại Việt Nam. Trong Vĩ thanh (Về Kinh Bắc), chính Hoàng Cầm đã kể lại rất cụ thể trường hợp ra đời của bài thơ “Lá diêu bông”: “Đặc biệt, riêng, riêng có bài Lá diêu bông, duy nhất một bài này hoàn toàn là những lời văng vẳng bên tai, từ đầu chí cuối, quá nửa đêm mùa rét 1959… tôi vẫn không ngủ được. Bốn bề yên tĩnh… Chợt bên tai vẳng lên một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành rọt, đọc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thời nào xa xưa vẳng đến, có lẽ từ tiền kiếp vọng về:
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng…
“Tôi xoay người trong chăn về phía bên trái và ghi ngay lên giấy. Giọng nữ vẫn đọc, không vội vàng và cũng không quá chậm, và tôi ghi lia lịa trong bóng tối mờ. Đến lúc giọng nữ im bặt hẳn, lòng tôi nhẹ bẫng đi, được một lát thì tôi ngủ thiếp. Sớm hôm sau nhìn lại trang “bản thảo” thì có chỗ rõ, đọc được, nhiều chỗ dòng nọ đè lên dòng kia, chữ này xoá mất chữ khác. Phải mất nửa giờ, tôi mới tách được ra theo thứ tự đúng như những lời người nữ kỳ diệu nào đó đã đọc cho tôi viết lúc quá nửa đêm hôm qua. Bài Lá diêu bông ra đời như vậy, nói có người không tin, nhưng tôi nghĩ bây giờ khoa tâm thần học, vô thức luận, tâm linh học có thể lý giải được hiện tượng đó một cách rất khoa học. Vậy nên, cái lá diêu bông là cái lá gì, ở đâu, nào tôi có biết. Thần linh đọc diêu bông, tôi chép diêu bông, thế thôi. Nhưng nó có nguồn gốc đấy”.
… Ngày cưới Chị Em tìm thấy lá Chị cười xe chỉ ấm trôn kim Em tìm thấy lá Xoè tay phủ mặt Chị không nhìn Em cầm chiếc lá đi đầu non cuối bể Gió quê vi vút gọi Diêu bông hời!… – Ới diêu bông!…
Có phải vì thế mà nó đã “lọt tai” độc giả Việt Namvà được nhiều thế hệ người đọc nước ta tìm đến và đón nhận? Nguyễn Đăng Mạnh gọi đó là “phạm trù siêu thơ”, Nguyễn Đăng Điệp thấy ông là “người dệt thơ từ những giấc mơ…”, còn Đỗ Lai Thuý thì lại cho rằng “có thể Hoàng Cầm không có lý luận, không có tuyên ngôn như nhóm siêu thực của André Breton, nhưng trên thực tế ông đã sáng tác như họ”. Chỉ có điều, ông đã Việt hoá thơ siêu thực châu Âu, đúng hơn là đã Kinh Bắc hoá đến mức tạo ra một bông hoa thơ thật nhuần nhị và đẹp hư ảo như chiếc Lá diêu bông từ khi ra đời đến nay vẫn lâng lâng, mơ hồ, say đắm, mê hương trong lòng người đọc…
Đến cuộc thi bình thơ cuối thế kỷ…
Bốn mươi năm sau. Bài thơ đã có thời gian đi vào cuộc sống. Lớp trẻ đã đón nhận Lá diêu bông như đón nhận một tiếng thơ của lòng mình. Nhiều cuộc trao đổi, toạ đàm về Lá diêu bông đã được tổ chức trong học sinh, sinh viên. Thi sĩ Hoàng Cầm đã đến nói chuyện về thơ của mình với sinh viên trường Đại học sư phạm Hà Nội và bình hai thi phẩm Lá diêu bông và Cây tam cúc. Và một hạnh phúc, một phần thưởng lớn đã đến với ông: Hội Tao Đàn báo Hoa học trò đã tổ chức một cuộc thi bình bài thơ Lá diêu bông kéo dài mấy tháng trong năm 1999 – năm cuối cùng của thế kỷ. Bài dự thi khá nhiều với nhiều tiếng nói bình thơ khác nhau nhằm khám phá cái “Lá diêu bông” bí ẩn, say người và đầy ám ảnh kia. Phải khó khăn, vất vả lắm Ban giám khảo mới chọn được không đầy 10 bài để đưa vào chung khảo. Các bài này đều được đưa nhà thơ Hoàng Cầm “chấm” để tham khảo ý kiến. Bài được giải cao nhất trong cuộc thi bình thơ đã được chính tác giả bài thơ cho 9 điểm. Đó là bài của Đỗ Khánh Phương, sinh viên lớp 3B, Khoa ngữ văn, Đại học sư phạm Hà Nội I, nhan đề: Tình yêu tuyệt vọng và hy vọng của đời người với lời kết thúc: “Chông chênh giữa hai bờ thực và ảo, giữa có lý và phi lý, giữa đòi hỏi và hy sinh, tâm trạng của nhà thơ cũng là tâm trạng của tình yêu, nhất là khi nỗi đam mê cháy lên từ những điều không có thực. Vì thế mà có một ảo kỳ Lá diêu bông. Vì thế mà tình yêu vẫn mãi là ảo kỳ, là đáng được thương, đáng được không vô tình với nó. Và, người ta lại cháy lên hy vọng làm một điều gì đó để tình yêu không đi cùng với nỗi bất hạnh trên đời”.
Và “Lá diêu bông” đi vào cuộc sống…
Nhạc sĩ Trần Tiến đã phổ nhạc bài thơ Lá diêu bông thành một bài hát được rất nhiều người yêu thích, tạo một nhịp cầu âm nhạc cho lời thơ Lá diêu bông của Hoàng Cầm đi vào lòng công chúng. Nhưng có những điều không mấy người biết về tác giả Lá diêu bông: Nhờ có bài thơ này mà Hoàng Cầm cùng với nhà nhiếp ảnh Nguyễn Đình Toán đã được ông giám đốc Khách sạn Hoa Lư – Ninh Bình cho ăn ở không mất một xu (chỉ vì mê bài Lá diêu bông) và cả người gác cầu Đò Lèn – Thanh Hoá ưu tiên cho đi trước (cũng chỉ vì ái mộ ông “Lá diêu bông“) khi họ vào Thanh Hoá để gặp hai nhà văn Hoà Vang và Nguyễn Lương Ngọc trong chuyến đi bộ xuyên Việt. Và đặc biệt, bài thơ đã thành tên một cái quán – Quán “Diêu Bông” trên đường Xô Viết Nghệ Tĩnh vào những năm 1980 – (nay là Nguyễn Thị Minh Khai, Q.3, TPHCM). Chủ quán là một nhà giáo – nhà thơ nghỉ hưu sớm, đã nhờ một người quen (trung tá Quýnh) chuyển cho tác giả Lá diêu bông một bức thư bằng thơ như sau:
Quán em nghèo em gọi Diêu Bông Cũng là như có như không vậy mà… Hoàng Cầm ơi, anh ở xa Em nhờ anh Quýnh bắc qua nhịp cầu Gặp anh bày tỏ trước sau Diêu bông hư thực biết đâu mà tìm Thương người đáy biển mò kim Đời giông bão thương cánh chim cuối trời…
Xuân Nguyễn (Theo Kiến Thức Ngày Nay 569)
Sao em nỡ vội lấy chồng hay Lá Diêu Bông là một bài hát thuộc thể loại trữ tình do nhạc sĩ Trần Tiến sáng tác vào năm 1990, phỏng theo bài thơ mang tên ” Lá Diêu Bông” của nhà thơ Hoàng Cầm. Nội dung bài hát kể về chuyện một người thiếu nữ thề ước với người con trai yêu cô rằng: nếu tìm được “Lá Diêu Bông” thì sẽ lấy làm chồng, mặc dù cô biết đó là một loại lá không có thật. Thời gian trôi qua, người con trai cất công đi tìm chiếc lá thần thoại đó nhưng người yêu của anh đã đi lấy chồng từ thuở nào…
Bài hát từng nhận được giải thưởng của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh năm 1990, về những sáng tác cổ động cho phong trào Dân số – Kế hoạch hoá gia đình.
Thơ Hoàng Cầm
Bài thơ ” Lá Diêu Bông” là câu chuyện tình có thật của nhà thơ Hoàng Cầm. Khi mới được 8 tuổi, Hoàng Cầm về thăm nhà ở làng Đình Bảng, tỉnh Bắc Ninh, sau khi đi trọ học ở tỉnh. Đang ở trong quán hàng xén của mẹ, ông tình cờ gặp một người con gái 16 tuổi tên Vinh bước vào quán. Hoàng Cầm ngay lập tức phải lòng cô gái. Suốt 4 năm trời, cậu học trò nhỏ ngày đêm: ” ngong ngóng sang bên kia đường số 1, xe xế nhà tôi khoảng hai mươi mét, nơi thiên thần của tôi ngồi bán quán nghèo“. Người con gái mặc dù biết mối tình của Hoàng Cầm dành cho mình nhưng vẫn lẳng lặng. Một ngày kia, chị nói vu vơ với Hoàng Cầm ” Đứa nào tìm được Lá Diêu Bông, từ nay ta gọi là chồng…“. Mặc dù biết rằng thứ lá đó không có thật nhưng cậu học trò vẫn mải miết đi tìm. Năm Hoàng Cầm 12 tuổi, cô gái tên Vinh đi lấy chồng. Đến khoảng 25 năm sau, bài thơ ” Lá Diêu Bông” được ông sáng tác.
Trích đoạn bài thơ:
Vào thập niên 1980, nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ nhạc cho bài thơ. Nội dung bài thơ được giữ nguyên và ông chỉ thêm vào hai câu ở cuối bài:
Khoảng năm 1990, nhạc sĩ Trần Tiến phổ lại nhạc và lời mới cho bài thơ này, bài hát mang âm hưởng dân ca Bắc Bộ, lấy tên là ” Sao em nỡ vội lấy chồng“. Bài hát này được Trần Tiến sáng tác để tuyên truyền cho phong trào Dân số – Kế hoạch hóa gia đình, một phong trào được Liên Hợp Quốc bảo trợ. Một thời gian sau, nó được dàn nhạc giao hưởng New York thể hiện nhằm đón chào Bộ trưởng Bộ Y tế Việt Nam lên nhận giải thưởng của tổ chức này. ” Sao em nỡ vội lấy chồng” từng được khá nhiều ca sĩ thể hiện như: Quang Lý, Thu Hiền, Trung Đức, Trần Thu Hà, Quang Linh,… Ngoài ra, một nữ ca sỹ người Nhật Bản cũng đã đưa bài hát này vào CD nhạc phát hành hơn 20 nước trên thế giới của mình.
Trích lời bài hát:
Lưu Thị Huê @ 21:36 04/05/2013 Số lượt xem: 1410